Thiết kế Kaiser (lớp thiết giáp hạm)

Lớp Kaiser, giống như lớp Helgoland dẫn trước, được đặt hàng trong cùng Bản Tu chính thứ hai của Đạo luật Hải quân, vốn được thông qua vào ngày 27 tháng 3 năm 1908.[6] Luật này quy định tuổi đời hoạt động của tàu chiến chủ lực được giảm từ 25 năm xuống còn 20 năm, một biện pháp nhằm cho phép đóng các thiết giáp hạm mới hơn. Điều đó có nghĩa là sáu chiếc thuộc lớp hải phòng hạm Siegfried, hai chiếc lớp hải phòng hạm Odin cùng bốn chiếc lớp thiết giáp hạm Brandenburg sẽ được thay thế.[6] Năm chiếc trong lớp Kaiser được chế tạo để thay thế cho ba chiếc thuộc lớp Siegfried là Hildebrand, HeimdallHagen cùng hai chiếc lớp Odin là OdinÄgir.[5]

Các đặc tính chung

Những chiếc trong lớp Kaiser có chiều dài ở mực nước là 171,8 m (564 ft) và chiều dài chung 172,4 m (566 ft). Chúng có mạn thuyền rộng 29 m (95 ft), độ sâu của mớn nước trước mũi là 9,1 m (30 ft) và sau đuôi là 8,8 m (29 ft), cùng một trọng lượng choán nước tối đa 27.000 tấn.[Ghi chú 2] Các con tàu có một đáy tàu kép chiếm 88% chiều dài của lườn tàu và 17 ngăn kín nước. Thủy thủ đoàn bao gồm 41 sĩ quan và 1.043 thủy thủ. Khi phục vụ trong vai trò soái hạm của hải đội, con tàu được bổ sung thêm 14 sĩ quan và 80 thủy thủ; và khi là tàu chỉ huy thứ hai, quân số tăng thêm 2 sĩ quan và 23 thủy thủ.[5]

Lớp Kaiser là những con tàu đi biển xuất sắc nhưng phản ứng cứng, chỉ giảm tốc độ đôi chút khi biển động. Nó phản xạ tốt với điều khiển từ bánh lái; chúng chuyển hướng nhanh, nhưng chịu một lực xoắn nặng khi đổi hướng. Khi bẻ lái gắt, con tàu mất đến 66% tốc độ và nghiêng đến 8°. Những chiếc trong lớp Kaiser có chiều cao khuynh tâm ngang 2,59 m (8,5 ft).[5]

Động lực

Kaiser là lớp thiết giáp hạm Đức đầu tiên được trang bị động cơ turbine.[7] Chúng sử dụng turbine do nhiều hãng khác nhau chế tạo, khi Bộ Hải quân cùng các xưởng tàu Đức nỗ lực tìm một giải pháp thay thế cho sự độc quyền về turbine của hãng Parsons của Anh Quốc.[8][Ghi chú 3] Dù sao, cả Kaiser lẫn Kaiserin mỗi chiếc đều được trang bị ba bộ turbine của Parsons, Friedrich der Grosse có ba turbine của hãng AEG-Curtis, trong khi König Albert được trang bị turbine Schichau. Các turbine dẫn động chân vịt ba cánh có đường kính 3,75 m (12,3 ft), cho phép đạt được tốc độ theo thiết kế là 21 knot. Các con tàu có hai bánh lái.[5] Prinzregent Luitpold được trang bị hai bộ turbine Parsons cho các trục bên; nó được dự định trang bị một động cơ diesel 6 xy-lanh 2 thì do Germania chế tạo công suất 12.000 mã lực cho trục giữa. Tuy nhiên động cơ diesel đã không thể kịp hoàn thành để trang bị cho Prinzregent Luitpold, nên nó di chuyển chỉ bằng hai trục.[7] Khi chạy thử máy, Prinzregent Luitpold chậm hơn các tàu chị em khoảng 1,5 knot.[9]

Hơi nước được cung cấp bởi 16 nồi hơi Schulz-Thornycroft, ngoại trừ Prinzregent Luitpold chỉ có 14 nồi hơi. Lưới rỗng được trang bị cho các nồi hơi vào giữa những năm 1916-1917. Các con tàu ba trục mang theo 3.600 tấn than, cho phép một tầm xa hoạt động 7.900 hải lý ở tốc độ đi đường trường 12 knot. Prinzregent Luitpold mang theo một trữ lượng than ít hơn, chỉ 3.200 tấn, nhưng được thiết kế để mang thêm 400 tấn dầu đốt cho động cơ diesel. Nếu chỉ với động cơ diesel, Prinzregent Luitpold có tầm hoạt động 2.000 hải lý ở tốc độ 12 knot.[7][10]

Điện năng cho con tàu được cung cấp bởi bốn cặp máy phát turbine và hai máy phát diesel, tạo ra công suất 1.800 kW điện xoay chiều với điện thế 225 V.[5]

Vũ khí

Tháp pháo bắn thượng tầng phía sau của Kaiser

Những chiếc trong lớp Kaiser mang theo mười khẩu pháo SK 30,5 cm (12,0 in) L/50[Ghi chú 4] đặt trên năm tháp pháo nòng đôi, gồm một tháp pháo trước mũi, hai tháp pháo hai bên mạn giữa tàu, và hai tháp pháo phía đuôi bắn thượng tầng. Các khẩu pháo được cung cấp tổng cộng 860 quả đạn pháo, 86 viên cho mỗi khẩu pháo.[5] Các quả đạn pháo này nặng 894 lb (406 kg), và được bắn với một lưu tốc đầu đạn 854 m/s (2.800 ft/s).[11] Các khẩu pháo được đặt trên các bệ Drh LC/1909, vốn tương tự như kiểu LC/1908 cũ hơn được sử dụng trên những chiếc thuộc lớp Helgoland dẫn trước.[9] Thoạt tiên kiểu tháp pháo này có khả năng hạ đến −8° và nâng lên đến 13,5°; với góc nâng tối đa, nó cho phép có tầm bắn đến 16.299 m (17.825 yd). Các tháp pháo sau này được cải tiến để hạ thấp −5,5° và nâng lên 16°, cho phép nâng tầm bắn tối đa lên 20.400 m (22.300 yd).[5]

Dàn pháo hạng hai của các con tàu bao gồm mười bốn khẩu pháo 15 cm (5,9 in) SK L/45 đặt trên các tháp pháo ụ. Mỗi khẩu pháo được cung cấp 160 quả đạn pháo nặng 99,9 lb (45,3 kg), tổng cộng 2240 quả.[5] Với lưu tốc đầu đạn 835 m/s (2.740 ft/s),[11] các khẩu pháo này có thể bắn mục tiêu ở cách xa 13.500 m (14.800 yd), và sau khi được cải biến vào năm 1915, tầm bắn được tăng lên 16.800 m (18.400 yd).[5] Các con tàu cũng được trang bị tám khẩu SK L/45 8,8 cm (3,5 in); chúng sau đó được thay thế bởi bốn khẩu pháo phòng không 8,8 cm L/45, hai trong số đó sau cùng bị tháo dỡ.[9] Giống như mọi tàu chiến chủ lực vào thời đó, những chiếc trong lớp Kaiser được trang bị năm ống phóng ngư lôi ngầm 50 cm (20 in), gồm một ống trước mũi và hai ống mỗi bên mạn tàu.[5]

Vỏ giáp

Sơ đồ của lớp Kaiser; các khu vực xám thể hiện phần của con tàu được bảo vệ bởi vỏ giáp

Giống như mọi tàu chiến Đức đương thời, những chiếc trong lớp Kaiser được bảo vệ bằng giáp thép Krupp. Sàn tàu có lớp thép dày đến 10 cm (3,9 in) tại các khu vực trọng yếu và giảm còn 6 cm (2,4 in) tại các vùng ít quan trọng. Đai giáp dày 35 cm (14 in) tại vùng thành trì trung tâm, giảm xuống còn 18 cm (7,1 in) phía mũi và 12 cm (4,7 in) phía đuôi tàu. Phía sau đai giáp, các con tàu có một vách ngăn chống ngư lôi dày 4 cm (1,6 in). Tháp chỉ huy phía trước có các mặt hông dày 40 cm (16 in) và nóc dày 15 cm (5,9 in); tháp chỉ huy phía sau được bảo vệ kém hơn đáng kể, với các mặt hông dày 20 cm (7,9 in) và nóc dày 5 cm (2,0 in). Dàn pháo chính được bảo vệ bởi lớp giáp dày 30 cm ở mặt bên và 22 cm (8,7 in) trên nóc. Các khẩu pháo 15 cm được bảo vệ bởi lớp giáp 17 cm (6,7 in) cho bệ và 8 cm (3,1 in) cho các tấm chắn.[5]

Chế tạo

Chiếc dẫn đầu của lớp, Kaiser, được đặt lườn tại xưởng đóng tàu Kaiserliche Werft Kiel vào tháng 12 năm 1909 dưới số hiệu chế tạo 35; nó được hạ thủy vào ngày 22 tháng 3 năm 1911 và đưa ra hoạt động cùng Hạm đội Biển khơi vào ngày 1 tháng 8 năm 1912. Friedrich der Grosse được tiếp nối vào ngày 26 tháng 1 năm 1910 tại xưởng tàu của hãng AG Vulcan tại Hamburg; nó được hạ thủy vào ngày 10 tháng 6 năm 1911 và đưa ra hoạt động như là soái hạm của Hạm đội Biển khơi vào ngày 15 tháng 10 năm 1912. Kaiserin, chiếc thứ ba trong lớp, được đặt lườn tại xưởng đóng tàu HowaldtswerkeKiel vào tháng 11 năm 1910; nó được hạ thủy vào ngày 11 tháng 11 năm 1911 và đưa ra hoạt động vào ngày 14 tháng 5 năm 1913.[5][9]

König Albert được đặt lườn tại xưởng đóng tàu SchichauDanzig vào ngày 17 tháng 7 năm 1910 và hạ thủy vào ngày 27 tháng 4 năm 1912. Nó được đưa ra hoạt động cùng hạm đội vào ngày 31 tháng 7 năm 1913. Prinzregent Luitpold, chiếc cuối cùng trong lớp, được đặt lườn vào ngày tháng 1 năm 1911 tại xưởng đóng tàu Germaniawerft ở Kiel. Nó được hạ thủy vào ngày 17 tháng 2 năm 1912 và đưa ra hoạt động vào ngày 19 tháng 8 năm 1913.[5][9]